bệnh tinh hồng nhiệt

Đánh giá tính chủ động của điều dưỡng trong chăm sóc người bệnh và một số yếu tố liên quan tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 năm 2022 August 2022 SỐT TINH HỒNG NHIỆT Bệnh gặp ở trẻ em, do vi khuẩn liên cầu tan huyết beta nhóm A có tiết ngoại độc tố (erythrogenic toxins: ngoại độc tố gây hồng ban) gây ra, biểu hiện lâm sàng là tình trạng sốt cao, viêm họng- amidan xuất tiết có thể kèm giả mạc, nổi hạch cổ, lưỡi bệnh tinh hồng nhiệt Tiếng Trung là gì? Giải thích ý nghĩa bệnh tinh hồng nhiệt Tiếng Trung (có phát âm) là: 猩红热 《急性传染病 Bệnh hồng cầu hình liềm, hay bệnh thiếu máu hồng cầu hình liềm thường được gọi tắt là bệnh hồng cầu liềm.Đây là là bệnh do một rối loạn di truyền gây ra, do một đột biến gen gây ra bất thường cho phân tử hemoglobin vận chuyển ôxi trong các tế bào hồng cầu khiến cho axit glutamic ở vị trí thứ 6 trong Nguyên nhân gây bệnh là vi khuẩn Streptococcus pyogenes, nhóm A, gây tan máu. Bệnh tinh hồng nhiệt xảy ra ở người bị nhiễm khuẩn mà không có miễn dịch với độc tố lên hồng cầu là chất gây nổi ban ở da. Bệnh lây truyền trực tiếp hay gián tiếp do hít phải các giọt nước Site Rencontre La Roche Sur Yon. Định nghĩa Bệnh lây do liên cầu khuẩn tan máu beta; khởi phát đột ngột, sốt rét run, đau họng đỏ, nội ban và ngoại ban điển hình. Căn nguyên Nguyên nhân gây bệnh là vi khuẩn Streptococcus pyogenes, nhóm A, gây tan máu. Bệnh tinh hồng nhiệt xảy ra ở người bị nhiễm khuẩn mà không có miễn dịch với độc tố lên hồng cầu là chất gây nổi ban ở da. Bệnh lây truyền trực tiếp hay gián tiếp do hít phải các giọt nước bọt của người bệnh hay người lành mang “khuân. Bệnh gây miễn dịch. Dịch tễ học Bệnh được gặp ở các vùng ôn đới; ít thấy ở các vùng nhiệt đới. Bệnh lưu hành ở các thành phố; tản phát ở nông thôn. Dịch hay xảy ra vào mùa xuân và mùa thu. Bệnh ít xảy ra ở trẻ dưới 6 tháng, hay hặp ở trẻ 3-12 tuổi. Triệu chứng hay gặp các thế không có triệu chứng hay không điển hình Ủ BỆNH 1-3 ngày đến 8 ngày. THỜI KỲ XÂM LẤN Hội chứng nhiễm khuẩn khởi phát đột ngột, có nhức đầu, rét run liên tục hay cơn rét run lặp đi lặp lại, thân nhiệt tăng ngay lên 40° và nhịp tim nhanh. Thường có nôn mửa và ở trẻ nhỏ có thể có các cơn co giật. Viêm họng đỏ viêm cả hai bên, có màu đỏ carmin rất sẫm, lan đến các cột trụ sau và tới màn hầu. Rìa và đầu lưỡi cũng bị đỏ, lưỡi có lóp bựa dày. Phản ứng hạch rất mạnh và đau ở các vùng xung quanh. Đau họng gây khó ăn. Nội ban xuất hiện sau khoảng 24 giờ. Đến ngày thứ 7, lưỡi trông giống như quả dâu rừng vì các gai lưỡi bị sưng và nhô lên. NGOẠI BAN nổi ban sau 48 giờ, bắt đầu từ các gốc chi rồi nhanh chóng mọc ở thân, cổ, chi và mặt. Ban mọc lan dần, rất nhanh, bao giờ bàn chân và bàn tay cũng bị cuối cùng nhưng không có ban ở lòng bàn tay và lòng bàn chân. Ban ở mọi nơi là giống nhau đỏ, lan toả, thành vằn, tạo nên các mảng rộng xen kẽ với các mảng da bình thường. Ban bị mất đi nếu lấy lam kính đè lên. Trên nền ban nổi lên các nốt sẩn đỏ, nhỏ như đầu ghim, tạo các đường đỏ sẫm, sờ lên thấy thô ráp. Ban rất dày ở các nếp gấp và trông giống như đám máu tụ, có các đường đỏ sẫm do các đám xuất huyết nhỏ, không bị mất đi khi đè lam kính lên dấu hiệu Pastia. Trên mặt, đôi khi ban nổi có hình như vết roi quất, như vết lằn do bị tát dâu hiệu Trousseau, cằm, môi và cánh mũi không có ban dấu hiệu Filatov. Tuỳ theo từng trường hợp, người ta gọi là tinh hồng nhiệt thể sẩn, thể kê hay thể giống pemphigut. BONG VẢY ban lặn kể từ ngày thứ 4 thứ 5. Bắt đầu bong vẩy từ ngày thứ 7 và kéo dài 2-3 tuần, ở thân mình, các vẩy tạo thành các vết tròn có đường kính vài milimet. ở mặt, vẩy là lớp bụi mịn; còn ở chi lại tạo thành các dải hình “găng tay ngón” ở bàn tay. Tình trạng toàn thân được cải thiện nhanh chóng. THỂ KHÔNG ĐIỂN HÌNH rất hay gặp do việc dùng kháng sinh để chữa bệnh do liên cầu khuẩn. THỂ ÁC TÍNH tình trạng nhiễm khuẩn nhiễm độc nặng, hoặc là vào lúc đầu hoặc là vào ngày thứ 5, thứ 6. Biến chứng hiếm gặp kể từ khi có kháng sinh Viêm tai giữa và viêm xương chũm, viêm họng có loét và hoại tử, apxe quanh amiđan. Viêm cầu thận cấp protein niệu, đái ra máu, hiếm khi bị suy thận. Viêm khớp đau khởp, tràn dịch ổ khớp, khu trú ở bàn tay hay cổ tay xem thấp khớp cấp. Viêm màng trong tim. Xét nghiệm lâm sàng Huyết đồ tăng bạch cầu tới với 70-90% là bạch cầu trung tính; giảm dần vào ngày thứ 6. Một nửa số trường hợp có bạch cầu ưa acid tăng từ 4 đến 20%. Có thể thấy các thể vùi trong các bạch cầu lympho thể Dohle. Thường có thiếu máu nhẹ. Tốc độ lắng máu tăng. Tăng antistreptolysin 0 ASO hay ASLO và tăng anti-DNase B. Cấy liên cầu từ ngoáy họng. Phản ứng Dick và phản ứng Schultz-Charlton không còn được dùng nữa. Chẩn đoán Có yếu tố lây nhiễm hay có dịch. Khởi phát đột ngột, có sốt, đau họng, nôn mửa. Đau họng đỏ, sưng hạch địa phương, lưỡi như quả dâu rừng. Ngoại ban điển hình. Phản ứng ngưng kết và cấy liên cầu khuẩn cho kết quả dương tính. Chẩn đoán phân biệt Viêm họng thông thường. Bạch hầu nuôi cấy giả mạc. Có thể có kết hợp bạch hầu và tinh hồng nhiệt. Rubeon ban đa dạng hơn, không bị viêm họng, sưng hạch sau tai. Phản ứng dị ứng với thuốc ban đa dạng, mày đay. Sởi ngoại ban kiểu khác, bắt đầu từ mặt, nốt Koplik. Tiên lượng tỷ lệ tử vong chung là dưới 0,5% nhưng có thể tối 3% ở một số vùng. Tần suất và mức độ nặng của tinh hồng nhiệt đã giảm do việc điều trị và dùng thuốc phòng các bệnh do liên cầu khuẩn. Tuy vậy, bệnh vẫn có thể nặng ở trẻ dưới 1 tuổi. Điều trị ĐẶC HIỆU Benzathin benzylpenicillin; tiêm một liều duy nhất 1-1,2 triệu đơn vị cho trẻ đỡn vị/kg; hoặc Phenoxymethylpenicillin penicillin V có tác dụng theo đường uống với điều kiện phải dùng trong 10 ngày, liều 250 g 6 giờ một lần cho trẻ con 50mg/kg/ngày. Erythromycin có thể thay thế penicillin trong trường hợp bị dị ứng. Cho uống 0,5 g; 6 giờ một lần trong 10 ngày 20mg/kg/ngày ở trẻ con ĐIỀU TRỊ TRIỆU CHỨNG nghỉ ngơi tại giường cho đến khi lui bệnh, bù nước theo đường uống, giảm sốt và giảm ho, theo dõi protein niệu. TIÊU CHUẨN KHỎI BỆNH xét nghiệm họng vào cuối đợt điều trị, không thấy có vi khuẩn. Phòng bệnh điều trị người lành mang liên cầu khuẩn bằng phenoxymethylpenicillin với liều đơn vị/ngày trong 10 ngày. Nếu bị dị ứng, có thể dùng erythromycin 250-500 mg; 6 giờ uống một lần. Phiến đồ họng cho phép đánh giá sự đào thải liên cầu khuẩn từ họng. Trở lại trường với giấy xác nhận đã được điều trị. Liên cầu là các trực khuẩn Gram dương hiếu khí gây ra nhiều chứng rối loạn, bao gồm viêm họng, viêm phổi, nhiễm trùng vết thương và da, nhiễm trùng huyết, và viêm nội tâm mạc. Các triệu chứng đa dạng tuỳ cơ quan nhiễm bệnh. Các triệu chứng nhiễm trùng do liên cầu nhóm A tan huyết beta có thể bao gồm sốt viêm khớp và viêm tiểu cầu thận. Hầu hết các chủng đều nhạy cảm với penicillin, nhưng những dòng kháng macrolide gần đây đã xuất hiện. Xem thêm Nhiễm Phế Cầu Khuẩn Nhiễm Phế Cầu Khuẩn Streptococcus pneumoniae phế cầu là vi khuẩn gram dương, tan máu alpha, hiếu khí, xếp đôi. Ở Mỹ, nhiễm trùng phế cầu là nguyên nhân chính gây viêm tai giữa, viêm phổi, nhiễm trùng huyết... đọc thêm , Thấp khớp Thấp khớp đọc thêm , và Viêm amidan Viêm amidan-họng Viêm amidan-họng là tình trạng nhiễm trùng cấp ở họng, amidan khẩu cái hoặc cả hai. Các triệu chứng có thể bao gồm đau họng, nuốt đau, nổi hạch cổ và sốt. Chẩn đoán là lâm sàng, bổ sung bằng... đọc thêm . Ba loại liên cầu khác nhau được phân biệt khi chúng được nuôi cấy trên môi trường thạch máu cừu Các liên cầu tan huyết beta tạo ra những vùng tan máu rõ ràng quanh mỗi khuẩn liên cầu tán huyết Alpha thường được gọi là Streptococci viridans được bao quanh bởi sự đổi màu xanh lá cây do sự tan máu không hoàn cầu tán huyết-gamma không tan máu. Phân loại tiếp theo, dựa trên carbohydrate trong thành tế bào, phân chia liên cầu thành 20 nhóm Lancefield từ A đến H và K đến T xem bảng Phân loại của Lancefield Phân loại liên cầu *. Streptococci Viridans tạo thành một nhóm riêng biệt rất khó phân loại. Trong phân loại của Lancefield, cầu khuẩn đường ruột ban đầu được đưa vào nhóm liên cầu nhóm D. Gần đây hơn, cầu khuẩn đường ruột Nhiễm cầu khuẩn đường ruột Cầu khuẩn đường ruột là vi khuẩn gram dương, kị khí tuỳ tiện. Enterococcus faecalis và E. faecium gây ra một loạt các bệnh nhiễm trùng, bao gồm viêm nội tâm mạc, viêm đường tiết... đọc thêm đã được phân loại như một chi riêng biệt. Một số liên cầu như Phế cầu khuẩn Nhiễm Phế Cầu Khuẩn Streptococcus pneumoniae phế cầu là vi khuẩn gram dương, tan máu alpha, hiếu khí, xếp đôi. Ở Mỹ, nhiễm trùng phế cầu là nguyên nhân chính gây viêm tai giữa, viêm phổi, nhiễm trùng huyết... đọc thêm là loại tan máu alpha, tức là chúng là một loại liên cầu khuẩn viridans, và không biểu hiện kháng nguyên Lancefield. Nhóm Lancefield từ K đến V là các loài liên cầu có độc lực hạn chế có thể gây nhiễm trùng ở những người bị suy giảm miễn dịch. Nhiều Streptococci tạo ra các yếu tố độc lực, bao gồm streptolysins, DNAases, và hyaluronidase, góp phần phá hủy mô và lây lan bệnh. Một vài chủng tạo ra ngoại độc tố kích hoạt các tế bào T nhất định, kích hoạt sự phóng thích các cytokine, bao gồm yếu tố hoại tử khối u-alpha, interleukins, và các chất điều hòa miễn dịch khác. Những cytokine kích hoạt hệ thống bổ thể, đông máu, và ly giải fibrin, dẫn đến sốc, suy cơ quan và tử vong. Quan trọng nhất là S. pyogenes,tan máu beta và Lancefield nhóm A và do đó được biểu hiện như liên cầu nhóm A tán huyết beta GABHS. Các bệnh cấp tính phổ biến nhất do GABHS là Nhiễm trùng da GABHS có thể lây lan qua các mô bị ảnh hưởng và các kênh bạch huyết gây viêm bạch huyết đến các hạch bạch huyết khu vực gây viêm hạch. GABHS cũng có thể gây ra biến chứng muộn tại chỗ, như áp xe amydal Áp xe quanh amidan và viêm mô tế bào Áp xe quanh amidan và viêm mô tế bào là các bệnh nhiễm trùng họng cấp tính thường gặp nhất ở thanh thiếu niên và thanh niên. Các triệu chứng là đau họng dữ dội, cứng hàm, giọng "khoai tây nóng"... đọc thêm , viêm tai giữa Viêm tai giữa cấp tính Viêm tai giữa cấp là nhiễm trùng do vi khuẩn hoặc virut ở tai giữa, thường đi cùng với nhiễm trùng đường hô hấp trên. Các triệu chứng bao gồm đau tai, thường có triệu chứng toàn thân ví dụ... đọc thêm , viêm xoang Viêm xoang Viêm xoang là viêm các xoang cạnh mũi do nhiễm virus, vi khuẩn hoặc nấm hoặc phản ứng dị ứng. Triệu chứng bao gồm ngạt mũi, chảy mũi mủ, và đau mặt hoặc nặng vùng mặt; đôi khi đau đầu, đau nhức... đọc thêm và vãng khuẩn huyết Vãng khuẩn huyết Nhiễm khuẩn huyết là sự hiện diện của vi khuẩn trong máu. Nó có thể xảy ra một cách tự phát, trong một số trường hợp nhiễm trùng mô, khi sử dụng ống thông tiểu hoặc ống thông đường tĩnh mạch... đọc thêm . Phụ thuộc vào mức độ nhiễm trùng và độ nhạy cảm của GABHS nghiêm trọng khác bao gồm nhiễm khuẩn huyết, nhiễm khuẩn huyết sau sinh, viêm nội tâm mạc, viêm phổi, và viêm do các typ liên cầu khác gây ra ít phổ biến hơn và thường bao gồm nhiễm trùng mô mềm hoặc viêm nội tâm mạc xem bảng Phân loại của Lancefield Phân loại liên cầu *. Một số trường hợp không nhiễm GABHS xảy ra chủ yếu ở một số quần thể nhất định ví dụ, liên cầu nhóm B ở trẻ sơ sinh và phụ nữ sau sinh. Người mang vi khuẩn không có triệu chứng khoảng 20%. Sốt tinh hồng nhiệt không phổ biến, nhưng sự bùng phát vẫn xảy ra. Sự lây truyền được tăng cường trong các môi trường dẫn đến sự tiếp xúc gần gũi giữa mọi người ví dụ như ở trường học hoặc các trung tâm chăm sóc ban ngày.Sốt tinh hồng nhiệt, chủ yếu ở trẻ em, thường xảy ra sau khi bị nhiễm khuẩn cầu liên cầu họng; ít phổ biến hơn, nó theo sau các nhiễm khuẩn liên cầu ở những nơi khác ví dụ da. Sốt tinh hồng nhiệt là do các chủng liên cầu nhóm A tạo ra độc tố hồng cầu, tạo ra tổn thương hồng-đỏ trên da nghiêm pháp căng da dương ban được nhìn thấy rõ nhất trên bụng hoặc ngực bên và dưới dạng các đường đỏ sẫm ở da đường Pastia hoặc xanh xao quanh thái dương. Phát ban bao gồm nhiều nốt sẩn nhỏ 1 đến 2 mm đặc trưng, ​​tạo ra chất lượng như giấy nhám cho da. Lớp trên của vùng da đỏ trước đó thường bong ra sau khi sốt giảm. Phát ban thường kéo dài từ 2 đến 5 ngày. Các triệu chứng khác cũng tương tự như ở viêm họng do liên cầu, và tiến trình và quản lý bệnh sốt tinh hồng nhiệt cũng tương tự như các trường hợp nhiễm trùng nhóm A khác. Nhiễm trùng da bao gồmChốc lở là một nhiễm trùng da bề mặt tạo vỏ hoặc bọng nước. Viêm cân mạc hoại tử phổ biến ở người nghiện ma đây được gọi là bệnh hoại tử do liên cầu và phổ biến như là vi khuẩn ăn thịt, cùng một hội chứng do nhiều loại vi khuẩn, liên quan đến vi khuẩn kỵ khí hoặc hiếu khí, bao gồm Clostridium perfringens. Nhiễm nhiều vi khuẩn có thể xảy ra khi nguồn là ruột ví dụ sau phẫu thuật đường ruột, thủng ruột, viêm túi thừa, hoặc viêm ruột thừa.Các triệu chứng của viêm cân mạc hoại tử bắt đầu với sốt và đau khu trú không rõ điểm đau; đau tăng nhanh theo thời gian và thường là biểu hiện đầu tiên hoặc đôi khi là duy nhất. Có thể có ban đỏ lan tỏa hoặc cục bộ. Huyết khối vi mạch là nguyên nhân hoại tử thiếu máu, dẫn đến sự lan truyền nhanh và hoại tử không đối xứng. Ở 20 đến 40% bệnh nhân, các cơ lân cận bị xâm lấn. Sốc và rối loạn chức năng thận thường gặp. Tỷ lệ tử vong cao, ngay cả khi điều trị. Cơ chế mà một số chủng GABHS gây ra biến chứng muộn là không rõ ràng nhưng có thể liên quan tới phản ứng của các kháng thể kháng liên cầu đối với mô cơ trong những lý do quan trọng nhất để điều trị viêm họng GABHS viêm họng do liên cầu là để phòng thấp chứng PANDAS rối loạn thần kinh tự miễn ở trẻ em liên quan đến liên cầu nhóm A đề cập đến một tập hợp các rối loạn ám ảnh hoặc tật máy giật ở trẻ em được cho là trầm trọng hơn do nhiễm GABHS. Nuôi cấyĐôi khi xét nghiệm kháng nguyên nhanh hoặc xét nghiệm nồng độ kháng thểLiên cầu dễ dàng xác định được bằng cách nuôi cấy trên thạch máu nghiệm phát hiện kháng nguyên nhanh có thể phát hiện GABHS trực tiếp dịch ngoáy họng tức là để sử dụng tại điểm chăm sóc. Nhiều xét nghiệm sử dụng xét nghiệm miễn dịch enzym, nhưng gần đây các thử nghiệm sử dụng phương pháp miễn dịch quang học đã trở nên khả dụng. Các xét nghiệm nhanh này có độ đặc hiệu cao > 95% nhưng khác nhau đáng kể về độ nhạy 55% đến 80 đến 90% đối với xét nghiệm miễn dịch quang học mới hơn. Do đó, kết quả dương tính có thể thiết lập chẩn đoán, nhưng kết quả âm tính, ít nhất ở trẻ em, nên được xác nhận bằng nuôi cấy. Vì viêm họng do liên cầu ít phổ biến hơn ở người lớn và ít biến chứng, nhiều bác sĩ lâm sàng không nuôi cấy khi xét nghiệm nhanh âm tính trừ khi sử dụng macrolide; trong những trường hợp như vậy, cần phải kiểm tra tính nhạy cảm để phát hiện tính kháng minh kháng thể liên cầu trong huyết thanh trong thời kỳ giai đoạn hồi phục chỉ cung cấp bằng chứng gián tiếp về nhiễm trùng. Các xét nghiệm kháng thể chống liên cầu khuẩn không có ích trong chẩn đoán nhiễm GABHS cấp tính vì kháng thể có sau vài tuần nhiễm bệnh và một chỉ số kháng thể cao phản ánh một nhiễm trùng trước đó. Các kháng thể hữu ích nhất trong chẩn đoán bệnh giai đoạn sau, như thấp khớp và viêm tiểu cầu thận. Hoạt độ kháng thể liên cầu O ASO và antidesxyribonuclease B kháng DNase B bắt đầu tăng lên khoảng 1 tuần sau khi nhiễm GABHS và cao nhất khoảng 1 đến 2 tháng sau khi nhiễm trùng. Cả 2 đều có thể tăng lên trong vài tháng, ngay cả sau khi nhiễm trùng không biến chứng. Các hiệu giá được đo trong giai đoạn cấp tính và giai đoạn dưỡng bệnh, từ 2 đến 4 tuần sau đó; một kết quả dương tính được định nghĩa là sự gia tăng ≥ 2 lần hiệu giá. Một hiệu giá duy nhất lớn hơn giới hạn trên của mức bình thường gợi ý nhiễm trùng liên cầu trước tiền sử hoặc tỷ lệ lưu hành liên cầu cao trong cộng đồng. Hoạt độ ASO chỉ tăng từ 75 đến 80% trường hợp nhiễm trùng. Để chẩn đoán trong các trường hợp khó, bất kỳ một trong các xét nghiệm khác antihyaluronidase, antinicotinamide adenine dinucleotidase, antistreptokinase cũng có thể được sử dụng. Penicillin được cho trong vòng 5 ngày đầu tiên đối với viêm họng liên cầu có thể làm chậm sự xuất hiện và giảm mức độ phản ứng ASO. Bệnh nhân bị viêm mủ do liên cầu thường không có phản ứng ASO đáng kể nhưng có thể đáp ứng với các kháng nguyên khác ví dụ, chống DNAase, antihyaluronidase. Thông thường penicillin Thông thường, nhiễm trùng họng gồm sốt tinh hồng nhiệt là tự khỏi. Thuốc kháng sinh ngắn ngày ở trẻ nhỏ, đặc biệt là những người bị sốt tinh hồng nhiệt, nhưng chỉ có tác động khiêm tốn đối với các triệu chứng ở thanh thiếu niên và người lớn. Tuy nhiên, thuốc kháng sinh giúp ngăn ngừa tạo mủ tại chỗ ví dụ áp xe quanh amydal, viêm tai giữa và thấp là loại thuốc được lựa chọn dùng cho các bệnh nhiễm trùng do GABHS ở thanh quản. Không có chủng GABHS nào cho thấy kháng penicillin trên lâm sàng. Tuy nhiên, một số chủng liên cầu dường như có khả năng kháng penicilin in vitro tức là tác dụng diệt khuẩn của penicilin giảm đáng kể; ý nghĩa lâm sàng của các chủng như vậy là không rõ đơn độc tiêm benzathine penicillin G, đơn vị tiêm bắp cho trẻ nhỏ < 27 kg hoặc 1,2 triệu đơn vị tiêm bắp cho trẻ em nặng cân ≥ 27 kg, thanh thiếu niên và người uống có thể được sử dụng nếu duy trì phác đồ trong 10 ngày. Các lựa chọn bao gồm Penicillin V 500 mg 250 mg cho trẻ dưới < 27 kg sau mỗi 12 giờAmoxicillin 50 mg/kg tối đa 1 g một lần/ngày trong 10 ngày là chất thay thế hiệu quả cho penicillin VCác cephalosporin tác dụng hẹp cephalexin, cefadroxil uống cũng có hiệu quả và có thể được sử dụng trừ khi bệnh nhân có phản ứng phản vệ với penicillin. Azithromycin có thể được sử dụng trong 5 ngày điều trị, mặc dù thuốc macrolide không tác dụng với Fusobacterium necrophorum, một nguyên nhân phổ biến gây viêm họng ở thanh thiếu niên và người lớn. Trì hoãn điều trị từ 1 đến 2 ngày cho đến khi xác nhận của phòng thí nghiệm không làm tăng thời gian mắc bệnh cũng như tỉ lệ biến penicillin và beta-lactam bị chống chỉ định, sự lựa chọn bao gồm Clindamycin 600 mg 6,7 mg/kg đối với trẻ em uống mỗi 8 giờErythromycin hoặc clarithromycin 250 mg 7,5 mg/kg trẻ em uống mỗi 12 giờ trong 10 ngàyAzithromycin 500 mg 15 mg/kg đối với trẻ em một lần/ngày trong 5 ngàyVì tính kháng của GABHS đối với macrolide đã được phát hiện, nên một số cơ quan chức năng khuyến cáo rằng cần xác định tính nhạy cảm với macrolide khi sử dụng và tình trạng kháng thuốc macrolide trong cộng đồng. Clindamycin 6,7 mg/kg sau khi uống mỗi 8 giờ được ưu tiên ở trẻ em bị tái phát bệnh viêm amiđan mạn tính, có thể do những triệu chứng sau Clindamycin có hoạt tính tốt đối với tụ cầu sản xuất penicillinase hoặc nhiễm đồng thời vi khuẩn kỵ khí và không có hoạt tính với penicillin như ngăn chặn sự sản xuất độc tố nhanh hơn các loại thuốc cũng có hiệu TMP/SMX, một số fluoroquinolones, và tetracyclines không đáng tin cậy để điều trị nhiễm họng, nhức đầu, và sốt có thể được điều trị bằng thuốc giảm đau hoặc hạ sốt. Aspirin nên tránh ở trẻ em. Nghỉ ngơi và cách ly là không cần thiết. Những người tiếp xúc gần có triệu chứng hoặc biến chứng của nhiễm liên cầu nên được khám. Viêm mô tế bào thường được điều trị mà không cần nuôi cấy vì việc phân lập các sinh vật có thể là khó khăn. Do đó, các phác đồ có hiệu quả chống lại cả liên cầu và tụ cầu đều được sử dụng; ví dụ, một trong những điều sau đây có thể được sử dụng Dicloxacillin hoặc cephalexin nếu Staphylococcus aureus [MRSA] không có khả năng kháng methicillinViêm cân mạc hoại tử nên được điều trị trong đơn vị hồi sức. Cần phải phẫu thuật mở đôi khi lặp lại. Kháng sinh ban đầu được đề nghị là một beta-lactam thường là một loại thuốc phổ rộng cho đến khi xác định được nguyên nhân cộng với clindamycin. Mặc dù liên cầu vẫn nhạy cảm với betalactam, các nghiên cứu trên động vật cho thấy rằng penicillin không phải lúc nào cũng có hiệu quả chống lại lượng lớn vi khuẩn vởi vì liên cầu không phát triển nhanh và có thể thiếu các protein liên kết penicillin, là mục tiêu của hoạt động penicillin. Để điều trị nhiễm khuẩn nhóm B, C, và G, thuốc được lựa chọn là PenicillinAmpicillinVancomycinCephalosporin hoặc macrolid thường có hiệu quả, cần làm kháng sinh đồ, đặc biệt là ở những người ốm yếu, suy giảm miễn dịch hoặc suy nhược và ở người có vật liệu nhân tạo. Dẫn lưu và làm sạch vết thương giúp điều trị kháng sinh hiệu gallolyticus trước là S. bovis tương đối nhạy cảm với các kháng sinh. Mặc dù S. bovis kháng vancomycin đã được báo cáo, vi khuẩn vẫn nhạy cảm với penicillin và lớn viridans streptococci nhạy cảm với penicillin G và beta-lactam khác. Kháng thuốc đang tăng lên, liệu pháp điều trị nên dựa vào kháng sinh đồ. Căn nguyên liên cầu quan trọng nhất là S. pyogenes, được biểu hiện như liên cầu nhóm A tán huyết beta GABHS.2 bệnh cấp tính phổ biến nhất do GABHS là viêm họng và nhiễm trùng biến chứng muộn, bao gồm thấp khớp và viêm tiểu cầu nghiệm nhanh tìm kháng nguyên tức là dùng cho mục đích chăm sóc đặc hiệu cao nhưng kém nhạy cảm; cần cấy máu, đặc biệt ở trẻ hoặc cephalosporin được ưu tiên dùng cho viêm họng; vì kháng thuốc macrolide đang ngày càng tăng, nên đề nghị kháng sinh đồ nếu loại thuốc đó được sử dụng. Sau đây là một số nguồn tài nguyên tiếng Anh có thể hữu ích. Vui lòng lưu ý rằng CẨM NANG không chịu trách nhiệm về nội dung của các tài nguyên này. Tinh hồng nhiệt là một bệnh nhiễm khuẩn cấp tính đường hô hấp. Vụ dịch tinh hồng nhiệt sớm nhất là ở Sicile ý năm 1543. Khoảng thế kỷ XVII, người ta đã phân biệt tinh hồng nhiệt với bệnh sởi và gọi là scarlatine tinh hồng nhiệtMục lụcTÁC NHÂN GÂY BỆNH VÀ CHẨN ĐOÁN BẰNG XÉT NGHIỆMQUÁ TRÌNH TRUYỀN NHIỄMĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄBIỆN PHÁP PHÒNG VÀ CHỐNG DỊCHTÁC NHÂN GÂY BỆNH VÀ CHẨN ĐOÁN BẰNG XÉT NGHIỆMTác nhân gây bệnhTác nhân gây bệnh đến nay vẫn chưa được xác định. Trong những năm 1884- 1885, người ta đã chú ý đến những liên cầu khuẩn làm tan máu tìm thấy ở họng những người bị bệnh tinh hồng nhiệt. Những mãi đến năm 1923-1925. Dick mới chứng minh được vai trò bệnh căn của vi khuẩn này trong bệnh tinh hồng nhiệt. Nhà bác học này đã gây ra bệnh thực nghiệm cho người bằng liên cầu khuẩn dung huyết phân lập từ họng người bệnh, và đã tạo được miễn dịch cho người bằng những chế phẩm liên cầu khuẩn nuôi cấy. Sau này lại thấy phản ứng Dick với độc tố liên cầu khuẩn tiêm trong da dương tính ở những người tiếp thu bệnh tinh hồng người phản đối thuyết này đã đưa ra nhiều luận cứ quan trọngLiên cầu khuẩn dung huyết thường thấy ở họng 50-70% những người lành mạnh và ở những người mắc bệnh khác thí dụ bệnh bạch hầu. Không có một tiêu chuẩn nào để phân biệt liên cầu khuẩn dung huyết tinh hồng nhiệt với các liên cầu khuẩn dung huyết dịch tạo ra ở người bằng các chế phẩm từ liên cầu khuẩn dung huyết còn đang nghi tinh hồng nhiệt gây miễn dịch lâu dài, trong khi đó, những bệnh khác rõ ràng là do liên cầu khuẩn dung huyết gây ra như quá trình mưng mủ, viêm quầng không có miễn dịch bền vững, mà còn có khi tạo ra nhạy cảm đối với sự nhiễm lại thí dụ ở bệnh viêm quầng.Người ta cũng đã tách được từ họng người bị bệnh tinh hồng nhiệt những virut có thể là tác nhân gây đúng hơn, tác nhân gây bệnh tinh hồng nhiệt là một liên hợp virut đặc hiệu và liên cầu làm tan huyết. Đó là kết luận của hội nghị quốc tế ở ý năm 1956 dành để thảo luận đặc biệt về vấn đề này. Giải quyết dứt khoát vấn đề bệnh căn của tinh hồng nhiệt là rất khó, bởi vì không có động vật thí nghiệm thích hợp để gây bệnh thực nghiệm. Chỉ có một vài loại khi giống như người là tiếp thu bệnh này ở mức độ cầu khuẩn có cấu trúc kháng nguyên khác nhau gây ra vài chục typ huyết thanh. Nhưng tất cả các liên cầu khuẩn đó đều sinh ngoại độc tố giống chịu đựng của liên cầu khuẩn ở ngoài cơ thể giống vi khuẩn bạch hầu, nhưng liên cầu khuẩn chết nhanh chóng hơn ở khô hanh, cho nên cơ chế truyền bệnh bằng bụi không thể thực hiện được như trong bệnh bạch hầu. Trong khi đó, liên cầu có thể sông lâu trong thức ăn, đặc biệt là trong sữa và những thức ăn có đường, cho nên ngoài bệnh tinh hồng nhiệt, chúng có thể gây những đợt bột phát ngộ độc thức sinh và biểu hiện lâm sàng. Tác nhân gây bệnh vào cơ thể ở niêm mạc đường hô hấp trên mũi, họng, amidan, đôi khi qua da, sinh sản ở đó; sau đó ngoại dộc tố xâm nhập vào cơ thể. Thời kỳ ủ bệnh là từ 3-5 ngày, tôi da là 12 hiện lâm sàng là sốt, viêm mũi họng và thanh quản, hiện tượng nhiễm độc và hồng cầu khuẩn có thể vào dòng máu để đến sinh sản ở các nội tạng và gây những biến chứng viêm tai có mủ, tổn thương ở tim, viêm thận, nhất là khi bị tái nhiễm hoặc bội nhiễm. Từ lâu người ta đã thấy rằng dịch tinh hồng nhiệt thường kèm theo dịch viêm nhân gây bệnh được giải phóng dần dần cùng với các mô niêm mạc, da bị rụng ra khỏi cơ thể và quá trình này thường kết thúc khi hết triệu chứng lâm sàng. Tuy nhiên một số người bệnh trở thành người khỏi mang vi hồng nhiệt chỉ là một biểu hiện lâm sàng của tình trạng nhiễm liên cầu khuẩn. Các biểu hiện lâm sàng khác là viêm da có mủ, viêm quầng, viêm tim, khớp. Nguyên nhân của những hình thái này của nhiễm liên cầu khuẩn là lối vào của vi khuẩn, cấu trúc kháng nguyên, và độc tố của chúng. Có thể nói tinh hồng nhiệt là biểu hiện của sự nhiễm khuẩn ban đầu, còn viêm tim khớp xảy ra ở cơ thể đã có miễn dịch kháng dộc tố và nhạy cảm dối với nhiễm đoán bằng xét nghiệmChẩn đoán bằng xét nghiệm có thể tiến hành bằng cách tách liên cầu khuẩn từ thanh quản hoặc tìm độc tố của vi khuẩn và kháng thể ở trong máu. Nhưng phương pháp chẩn đoán bằng xét nghiệm không được thông dụng, vì liên cầu khuẩn rất phổ biến, thường thấy ở thanh quản những người lành mạnh, và vì không thể nào phân biệt được liên cầu khuẩn gây bệnh scarlatine với những liên cầu khuẩn khác cũng ở người lành TRÌNH TRUYỀN NHIỄMNguồn truyền nhiễmNguồn truyền nhiễm là người bệnh, người khỏi mang vi khuẩn và người lành mang vi chế truyền nhiễmBệnh được lây chủ yếu qua không khí bằng giọt nhỏ. Người ta còn thực nhận khả năng truyền nhiễm qua thức ăn như sữa qua các đồ dùng và đồ chơi của người bệnh. Bệnh còn có thể lây qua tay bẩn và qua các dụng cụ y học tinh hồng nhiệt do vết thương, do bỏng, sau khi sinh đẻ.Tính cảm thụ và miễn dịchMỗi người đều tiếp thụ được bệnh, cho nên tinh hồng nhiệt là bệnh chủ yếu của trẻ em dưới 14 tuổi.Miễn dịch sau khi bị bệnh rất bền lâu. Gần đây, do dùng nhiều kháng sinh, nên thấy có hiện tượng bị mắc bệnh lại. Miễn dịch có tính chất kháng độc tố và kháng vi khuẩn. Theo các quan sán dịch tễ học, miễn dịch trong một số trường hợp, được hình thành chậm, trong vòng nhiều tuần ĐIỂM DỊCH TỄTinh hồng nhiệt thấy chủ yếu ở trẻ em dưới 12-14 tuổi, tuy cũng có thể xảy ra ở người lớn. Trong tổng số người mắc bệnh tinh hồng nhiệt, trẻ em dưới 7 tuổi chiếm 72,7% trẻ em dưới 14 tuổi chiếm 97%.Tinh hồng nhiệt có tính theo mùa. Mức độ mắc bệnh tăng ở đầu mùa thu khi bắt đầu đi học và giảm trong mùa nghỉ dộ mắc bệnh tuỳ thuộc vào mật độ dân chúng, cho nên mức độ mắc bệnh ở nông thôn thấp hơn so vứi ở thành phố. Kết quả là đa số thanh niên ở nông thôn không có miễn dịch, trong khi đó hầu hết trẻ em ở thành phố dưới 12 tuổi đã bị tinh hồng nhiệt và có miễn hồng nhiệt có tính chu kỳ. Cứ 3-5 năm lại xảy ra dịch lớn. Tính chu kỳ được điều chỉnh do tác động qua lại giữa miễn dịch của dân chúng và cơ chế truyền nhiễm bằng giọt nhỏ. Thời gian giữa các vụ dịch rất khác nhau tuỳ theo điều kiện sống cụ thể của dân chúng như cường độ của quá trình di cư trongnhững năm chiến tranh thế giới lần thứ hai, số trường hợp mắc bệnh trong năm 1943 ở nhiều nước Tây Âu gấp 2-3 lần tổng số các trường hợp mắc bệnh trong suốt 11 năm trước chiến tranh 1928-1938.Trước đây 20-30 năm, tinh hồng nhiệt là một bệnh nặng ở trẻ em, thường kèm theo biến chứng như viêm tai có mủ dẫn tới điếc, viêm thận, suy tim với tỷ lệ tử vong cao 8-12%. Ngày nay, tinh hồng nhiệt trở thành một bệnh nhẹ ở trẻ em tỷ lệ tử vong ở khắp nơi đều ở mức thấp, dưới 0,1%. Việc sử dụng penix- illin chỉ giải thích một phần sự diến biến này, bởi vì tinh hồng nhiệt cũng diễn biến nhẹ ở những người bệnh không điều trị bằng kháng sinh. Rất có thể là do tính sinh độc tố của tác nhân gây bệnh bị giảm, hoặc do từ thế hệ này qua thế hệ khác, sức đề kháng của dân chúng đối với tinh hồng nhiệt đã tăng pháp chống dịchChống bệnh tinh hồng nhiệt là một việc rất phức tạp. Vì tác nhân gây bệnh đến nay vẫn chưa được xác định. Các thể bệnh nhẹ làm cho việc chẩn đoán bệnh và việc phòng chống dịch càng thêm khó khăn. Các biện pháp chông dịch chỉ nhằm mục đích giảm tỷ lệ tử vung và ngăn ngừa các biến hồng nhiệt là một bệnh bắt buộc phải khai bệnh có thể cách ly ở nhà hoặc ở bệnh viện tuỳ theo các chỉ định lâm sàng và chỉ định dịch tễ học, như trong bệnh sởi. cần phải đưa vào bệnh viện, các trẻ em nhỏ dưới 2 tuổi vì ở lứa tuổi này, tỷ lệ tử vong cao nhất và những người bệnh sống trong điều kiện vệ sinh thấp kém. Phải đưa người bệnh vào bệnh viện để đề phòng tái nhiễm và biến chứng bởi liên cầu bệnh có thể ra viện từ ngày thứ bảy đến ngày thứ mười hai nếu khỏi về lâm sàng; thậm chí có thể sớm hơn từ ngày thứ năm nếu điều trị bằng penix- illin. Tuy nhiên, những trẻ em dưới 12 tuổi và những người lớn làm việc ở các nhà trẻ, mẫu giáo, lớp 1 và lớp 2, chỉ được phép đi làm việc hoặc đến trường sau thời gian cách ly 12 ngày ở nhà, vì không thể xác định được là họ còn mang vi khuẩn hay ổ bệnh không phải tẩy uế cuối cùng, chỉ cần lau rửa sàn nhà, các đồ dùng và làm thoáng khí buồng bệnh. Trong khi người bệnh còn nằm điều trị cũng làm thoáng khí buồng bệnh bằng cách chiếu tia cực tím. Nên tiến hành tẩy uế thường xuyên các đồ dùng hàng ngày và đồ đạc trong phòng bằng dung dịch cloramin 1%.Những người chăm sóc người bệnh phải đeo khẩu trang bằng gạcTrong ổ dịch, những trẻ em tiếp xúc với người bệnh phải cách ly trong 7 ngày, kể từ ngày cách ly người bệnh và tiến hành tẩy uế cuối cùng. Nên tiêm gamma-globulin cho những trẻ em bệnh đặc hiệuNgười ta chưa chế dược vacxin đặc hiệu. Những vacxin chế bằng liên cầu khuẩn chết hoặc bằng độc tố của chúng, hoặc bằng cả vi khuẩn và độc tố đều chỉ cho kết quả hạn chế và cần phải tiêm 3-5 lần. Việc sử dụng liều lượng kháng nguyên cao đã gây ra phản ứng mạnh, không khác nhiễm khuẩn liên cầu khuẩn mấy. Nhưng cố gắng chế một giải độc tố ít dộc hơn cũng thất bại. Như vậy việc tạo miễn dịch chủ động trong tinh hồng nhiệt còn là một vấn đề phải giải dùng gamma-globulin để tạo miễn dịch thụ động cũng cho kết quả hạn chế. Sốt tinh hồng nhiệt là phát ban phổ biến nhất liên quan đến viêm họng do liên cầu “strep throat” ở lứa tuổi học đường và thanh thiếu niên. Khoảng 10% các trường hợp viêm họng do liên cầu có sốt tinh hồng nhiệt. Đó là một hội chứng đặc trưng bởi viêm họng xuất tiết, sốt và phát ban dạng sẩn màu đỏ tươi. 1. Nguyên nhân gây bệnh sốt tinh hồng nhiệt sốt phát ban Vi khuẩn gây bệnh là Streptococcus pyogenes nhóm A Liên cầu tan huyết nhóm A, một vi khuẩn gram dương tạo ra nội độc tố chịu trách nhiệm chủ yếu cho nhiễm trùng da. Liên cầu được tìm thấy trong dịch tiết tai, mũi, họng và da. Đường vào của vi khuẩn có thể từ các vết thương, vết bỏng nhiễm khuẩn hoặc nhiễm trùng đường hô hấp trên. Vi khuẩn lây truyền qua đường hô hấp, qua dịch tiết từ các tổn thương da do liên cầu nhóm A hoặc qua đường tiêu hóa khi dùng chung cốc uống nước, bát đĩa với người bị bệnh. Hiếm khi vi khuẩn có thể lây truyền thông qua thực phẩm không được xử lý đúng cách. Bệnh được chẩn đoán chủ yếu dựa trên lâm sàng, khi được chẩn đoán sớm, tiên lượng bệnh thường tốt, hầu hết bệnh nhân phục hồi sau 4-5 ngày với triệu chứng da có thể kéo dài vài tuần, bệnh có thể tái diễn. 2. Triệu chứng lâm sàng của bệnh sốt tinh hồng nhiệt – Thời gian ủ bệnh từ 1-4 ngày. – Bệnh thường xuất hiện đột ngột bằng một cơn sốt kèm theo đau họng, đau đầu, đau cơ, buồn nôn, ớn lành trẻ nhỏ có thể nôn, đau bụng, co giật. Sốt giảm nhanh trong 12-24 giờ sau khi bắt đầu điều trị kháng sinh, nếu không được điều trị, bệnh nhân sẽ sốt cao nhất vào ngày thứ 2 khoảng 39,5 – 40 độ C và kéo dài 5-7 ngày. – Tổn thương da xuất hiện 12-48 giờ sau khi bắt đầu sốt. Đầu tiên là các mảng đỏ ở dưới tai, cổ, ngực, nách. Phát ban đặc trưng là các sẩn đỏ sung huyết nhỏ như đinh ghim làm da trở nên thô ráp như giấy nhám ở ngực rồi lan ra tay, chân, thân trong vòng 34 giờ. Vị trí nổi bật ở vùng nếp gấp và vùng chịu áp lực như mông. Các mao mạch trở nên mỏng hơn và có thể bị vỡ, có thể thấy các vệt xuất huyết ở nách, khuỷu, bẹn, các vệt này có thể tồn tại 102 ngày sau khi phát ban biến mất. Trong trường hợp nặng, có thể xuất hiện các mụn nước nhỏ ở bụng, tay, chân. Tổn thương da kéo dài 4-5 ngày. Sau 7-10 ngày phát ban biến mất, bong da xuất hiện, đầu tiên ở ở mặt, bong da lòng bàn tay và ngón tay. Mức độ và thời gian của bong da phụ thuộc vào mức độ của phát ban. Vài tuần đến vài tháng sau, các đường ngang ở móng và rụng tóc có thể xuất hiện. – Niêm mạc thường có màu đỏ tươi, vòm miệng mềm thường xuất hiện các đốm xuất huyết rải rác hoặc các sẩn nhỏ màu đỏ. Vào ngày thứ 1 và thứ 2 của bệnh, lưỡi thường phủ một lớp màng trắng, qua đó các nhú đỏ nhô lên, đến ngày thứ 4 hoặc thứ 5, màng trắng bong ra để lộ bề mặt lưỡi đỏ tươi với các nhú nổi bật. Amidan đỏ, phù nề, tiết dịch. 3. Biến chứng của bệnh sốt tinh hồng nhiệt – Viêm tai giữa. – Viêm phế quản phổi – Viêm xoang – Viêm màng não – Áp xe não – Huyết khối xoang tĩnh mạch nội sọ – Nhiễm khuẩn huyết với viêm màng não – Viêm tủy xương và viêm khớp nhiễm trùng – Suy thận cấp do viêm cầu thận sau nhiễm liên cầu – Viêm gan – Viêm ống dẫn tinh – Viêm màng bồ đào – Viêm cơ tim – Sốc nhiễm độc… Việc điều trị sốt tinh hồng nhiệt chú trọng ngăn ngừa sốt thấp khớp cấp tính, giảm sự lây truyền bệnh và rút ngắn thời gian bị bệnh. Cụ thể phác đồ điều trị sẽ được bác sĩ đưa ra sau khi đã thăm khám và kiểm tra kỹ lưỡng tình trạng của người bệnh. Cần biết rằng, sốt tinh hồng nhiệt nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời có thể dẫn đến những biến chứng nguy hiểm. Do đó, ngay khi phát hiện các dấu hiệu bất thường, cần đến ngay cơ sở y tế, các phòng khám để được bác sĩ thăm khám. Tham khảo thêm BỆNH PHONG VÀ NHỮNG TRIỆU CHỨNG KHÔNG THỂ BỎ QUA Bác sĩ Trần Thị Hồng Vân với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực thẩm mỹ , làm đẹp , chăm sóc da, bác sĩ chính tại gsvvietnam . Xem thêm Tinh hồng nhiệt là một bệnh nhiễm khuẩn cấp tính đường hô hấp. Vụ dịch tinh hồng nhiệt sớm nhất là ở Sicile ý năm 1543. Khoảng thế kỷ XVII, người ta đã phân biệt tinh hồng nhiệt với bệnh sởi và gọi là scarlatine tinh hồng nhiệt TÁC NHÂN GÂY BỆNH VÀ CHẨN ĐOÁN BẰNG XÉT NGHIỆM Tác nhân gây bệnh Tác nhân gây bệnh đến nay vẫn chưa được xác định. Trong những năm 1884- 1885, người ta đã chú ý đến những liên cầu khuẩn làm tan máu tìm thấy ở họng những người bị bệnh tinh hồng nhiệt. Những mãi đến năm 1923-1925. Dick mới chứng minh được vai trò bệnh căn của vi khuẩn này trong bệnh tinh hồng nhiệt. Nhà bác học này đã gây ra bệnh thực nghiệm cho người bằng liên cầu khuẩn dung huyết phân lập từ họng người bệnh, và đã tạo được miễn dịch cho người bằng những chế phẩm liên cầu khuẩn nuôi cấy. Sau này lại thấy phản ứng Dick với độc tố liên cầu khuẩn tiêm trong da dương tính ở những người tiếp thu bệnh tinh hồng nhiệt. Những người phản đối thuyết này đã đưa ra nhiều luận cứ quan trọng Liên cầu khuẩn dung huyết thường thấy ở họng 50-70% những người lành mạnh và ở những người mắc bệnh khác thí dụ bệnh bạch hầu. Không có một tiêu chuẩn nào để phân biệt liên cầu khuẩn dung huyết tinh hồng nhiệt với các liên cầu khuẩn dung huyết khác. Miễn dịch tạo ra ở người bằng các chế phẩm từ liên cầu khuẩn dung huyết còn đang nghi ngờ. Bệnh tinh hồng nhiệt gây miễn dịch lâu dài, trong khi đó, những bệnh khác rõ ràng là do liên cầu khuẩn dung huyết gây ra như quá trình mưng mủ, viêm quầng không có miễn dịch bền vững, mà còn có khi tạo ra nhạy cảm đối với sự nhiễm lại thí dụ ở bệnh viêm quầng. Người ta cũng đã tách được từ họng người bị bệnh tinh hồng nhiệt những virut có thể là tác nhân gây bệnh. Nói đúng hơn, tác nhân gây bệnh tinh hồng nhiệt là một liên hợp virut đặc hiệu và liên cầu làm tan huyết. Đó là kết luận của hội nghị quốc tế ở ý năm 1956 dành để thảo luận đặc biệt về vấn đề này. Giải quyết dứt khoát vấn đề bệnh căn của tinh hồng nhiệt là rất khó, bởi vì không có động vật thí nghiệm thích hợp để gây bệnh thực nghiệm. Chỉ có một vài loại khi giống như người là tiếp thu bệnh này ở mức độ thấp. Liên cầu khuẩn có cấu trúc kháng nguyên khác nhau gây ra vài chục typ huyết thanh. Nhưng tất cả các liên cầu khuẩn đó đều sinh ngoại độc tố giống nhau. Sức chịu đựng của liên cầu khuẩn ở ngoài cơ thể giống vi khuẩn bạch hầu, nhưng liên cầu khuẩn chết nhanh chóng hơn ở khô hanh, cho nên cơ chế truyền bệnh bằng bụi không thể thực hiện được như trong bệnh bạch hầu. Trong khi đó, liên cầu có thể sông lâu trong thức ăn, đặc biệt là trong sữa và những thức ăn có đường, cho nên ngoài bệnh tinh hồng nhiệt, chúng có thể gây những đợt bột phát ngộ độc thức ăn. Bệnh sinh và biểu hiện lâm sàng. Tác nhân gây bệnh vào cơ thể ở niêm mạc đường hô hấp trên mũi, họng, amidan, đôi khi qua da, sinh sản ở đó; sau đó ngoại dộc tố xâm nhập vào cơ thể. Thời kỳ ủ bệnh là từ 3-5 ngày, tôi da là 12 ngày. Biểu hiện lâm sàng là sốt, viêm mũi họng và thanh quản, hiện tượng nhiễm độc và hồng ban. Liên cầu khuẩn có thể vào dòng máu để đến sinh sản ở các nội tạng và gây những biến chứng viêm tai có mủ, tổn thương ở tim, viêm thận, nhất là khi bị tái nhiễm hoặc bội nhiễm. Từ lâu người ta đã thấy rằng dịch tinh hồng nhiệt thường kèm theo dịch viêm amidan. Tác nhân gây bệnh được giải phóng dần dần cùng với các mô niêm mạc, da bị rụng ra khỏi cơ thể và quá trình này thường kết thúc khi hết triệu chứng lâm sàng. Tuy nhiên một số người bệnh trở thành người khỏi mang vi khuẩn. Tinh hồng nhiệt chỉ là một biểu hiện lâm sàng của tình trạng nhiễm liên cầu khuẩn. Các biểu hiện lâm sàng khác là viêm da có mủ, viêm quầng, viêm tim, khớp. Nguyên nhân của những hình thái này của nhiễm liên cầu khuẩn là lối vào của vi khuẩn, cấu trúc kháng nguyên, và độc tố của chúng. Có thể nói tinh hồng nhiệt là biểu hiện của sự nhiễm khuẩn ban đầu, còn viêm tim khớp xảy ra ở cơ thể đã có miễn dịch kháng dộc tố và nhạy cảm dối với nhiễm khuẩn. Chẩn đoán bằng xét nghiệm Chẩn đoán bằng xét nghiệm có thể tiến hành bằng cách tách liên cầu khuẩn từ thanh quản hoặc tìm độc tố của vi khuẩn và kháng thể ở trong máu. Nhưng phương pháp chẩn đoán bằng xét nghiệm không được thông dụng, vì liên cầu khuẩn rất phổ biến, thường thấy ở thanh quản những người lành mạnh, và vì không thể nào phân biệt được liên cầu khuẩn gây bệnh scarlatine với những liên cầu khuẩn khác cũng ở người lành mạnh. QUÁ TRÌNH TRUYỀN NHIỄM Nguồn truyền nhiễm Nguồn truyền nhiễm là người bệnh, người khỏi mang vi khuẩn và người lành mang vi khuẩn. Cơ chế truyền nhiễm Bệnh được lây chủ yếu qua không khí bằng giọt nhỏ. Người ta còn thực nhận khả năng truyền nhiễm qua thức ăn như sữa qua các đồ dùng và đồ chơi của người bệnh. Bệnh còn có thể lây qua tay bẩn và qua các dụng cụ y học tinh hồng nhiệt do vết thương, do bỏng, sau khi sinh đẻ. Tính cảm thụ và miễn dịch Mỗi người đều tiếp thụ được bệnh, cho nên tinh hồng nhiệt là bệnh chủ yếu của trẻ em dưới 14 tuổi. Miễn dịch sau khi bị bệnh rất bền lâu. Gần đây, do dùng nhiều kháng sinh, nên thấy có hiện tượng bị mắc bệnh lại. Miễn dịch có tính chất kháng độc tố và kháng vi khuẩn. Theo các quan sán dịch tễ học, miễn dịch trong một số trường hợp, được hình thành chậm, trong vòng nhiều tuần lễ. ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ Tinh hồng nhiệt thấy chủ yếu ở trẻ em dưới 12-14 tuổi, tuy cũng có thể xảy ra ở người lớn. Trong tổng số người mắc bệnh tinh hồng nhiệt, trẻ em dưới 7 tuổi chiếm 72,7% trẻ em dưới 14 tuổi chiếm 97%. Tinh hồng nhiệt có tính theo mùa. Mức độ mắc bệnh tăng ở đầu mùa thu khi bắt đầu đi học và giảm trong mùa nghỉ học. Mức dộ mắc bệnh tuỳ thuộc vào mật độ dân chúng, cho nên mức độ mắc bệnh ở nông thôn thấp hơn so vứi ở thành phố. Kết quả là đa số thanh niên ở nông thôn không có miễn dịch, trong khi đó hầu hết trẻ em ở thành phố dưới 12 tuổi đã bị tinh hồng nhiệt và có miễn dịch. Tinh hồng nhiệt có tính chu kỳ. Cứ 3-5 năm lại xảy ra dịch lớn. Tính chu kỳ được điều chỉnh do tác động qua lại giữa miễn dịch của dân chúng và cơ chế truyền nhiễm bằng giọt nhỏ. Thời gian giữa các vụ dịch rất khác nhau tuỳ theo điều kiện sống cụ thể của dân chúng như cường độ của quá trình di cư trong những năm chiến tranh thế giới lần thứ hai, số trường hợp mắc bệnh trong năm 1943 ở nhiều nước Tây Âu gấp 2-3 lần tổng số các trường hợp mắc bệnh trong suốt 11 năm trước chiến tranh 1928-1938. Trước đây 20-30 năm, tinh hồng nhiệt là một bệnh nặng ở trẻ em, thường kèm theo biến chứng như viêm tai có mủ dẫn tới điếc, viêm thận, suy tim với tỷ lệ tử vong cao 8-12%. Ngày nay, tinh hồng nhiệt trở thành một bệnh nhẹ ở trẻ em tỷ lệ tử vong ở khắp nơi đều ở mức thấp, dưới 0,1%. Việc sử dụng penix- illin chỉ giải thích một phần sự diến biến này, bởi vì tinh hồng nhiệt cũng diễn biến nhẹ ở những người bệnh không điều trị bằng kháng sinh. Rất có thể là do tính sinh độc tố của tác nhân gây bệnh bị giảm, hoặc do từ thế hệ này qua thế hệ khác, sức đề kháng của dân chúng đối với tinh hồng nhiệt đã tăng lên. BIỆN PHÁP PHÒNG VÀ CHỐNG DỊCH Biện pháp chống dịch Chống bệnh tinh hồng nhiệt là một việc rất phức tạp. Vì tác nhân gây bệnh đến nay vẫn chưa được xác định. Các thể bệnh nhẹ làm cho việc chẩn đoán bệnh và việc phòng chống dịch càng thêm khó khăn. Các biện pháp chông dịch chỉ nhằm mục đích giảm tỷ lệ tử vung và ngăn ngừa các biến chứng. Tinh hồng nhiệt là một bệnh bắt buộc phải khai báo. Người bệnh có thể cách ly ở nhà hoặc ở bệnh viện tuỳ theo các chỉ định lâm sàng và chỉ định dịch tễ học, như trong bệnh sởi. cần phải đưa vào bệnh viện, các trẻ em nhỏ dưới 2 tuổi vì ở lứa tuổi này, tỷ lệ tử vong cao nhất và những người bệnh sống trong điều kiện vệ sinh thấp kém. Phải đưa người bệnh vào bệnh viện để đề phòng tái nhiễm và biến chứng bởi liên cầu khuẩn. Người bệnh có thể ra viện từ ngày thứ bảy đến ngày thứ mười hai nếu khỏi về lâm sàng; thậm chí có thể sớm hơn từ ngày thứ năm nếu điều trị bằng penix- illin. Tuy nhiên, những trẻ em dưới 12 tuổi và những người lớn làm việc ở các nhà trẻ, mẫu giáo, lớp 1 và lớp 2, chỉ được phép đi làm việc hoặc đến trường sau thời gian cách ly 12 ngày ở nhà, vì không thể xác định được là họ còn mang vi khuẩn hay không. Ở ổ bệnh không phải tẩy uế cuối cùng, chỉ cần lau rửa sàn nhà, các đồ dùng và làm thoáng khí buồng bệnh. Trong khi người bệnh còn nằm điều trị cũng làm thoáng khí buồng bệnh bằng cách chiếu tia cực tím. Nên tiến hành tẩy uế thường xuyên các đồ dùng hàng ngày và đồ đạc trong phòng bằng dung dịch cloramin 1%. Những người chăm sóc người bệnh phải đeo khẩu trang bằng gạc Trong ổ dịch, những trẻ em tiếp xúc với người bệnh phải cách ly trong 7 ngày, kể từ ngày cách ly người bệnh và tiến hành tẩy uế cuối cùng. Nên tiêm gamma-globulin cho những trẻ em đó. Phòng bệnh đặc hiệu Người ta chưa chế dược vacxin đặc hiệu. Những vacxin chế bằng liên cầu khuẩn chết hoặc bằng độc tố của chúng, hoặc bằng cả vi khuẩn và độc tố đều chỉ cho kết quả hạn chế và cần phải tiêm 3-5 lần. Việc sử dụng liều lượng kháng nguyên cao đã gây ra phản ứng mạnh, không khác nhiễm khuẩn liên cầu khuẩn mấy. Nhưng cố gắng chế một giải độc tố ít dộc hơn cũng thất bại. Như vậy việc tạo miễn dịch chủ động trong tinh hồng nhiệt còn là một vấn đề phải giải quyết. Việc dùng gamma-globulin để tạo miễn dịch thụ động cũng cho kết quả hạn chế.

bệnh tinh hồng nhiệt